Các nhà nghiên cứu và biên soạn tập thơ “Nhật ký trong tù” (NKTT) của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thống nhất: tập thơ có 134 bài (sách “Suy nghĩ mới về
nhật ký trong tù”, NXBGD, 1993). Lần này, bài cuối cùng là bài “kết luận” cũng
được đưa vào tập thơ. Và, ở dưới bài thơ tác giả còn ghi
“Hoàn/29-8-1942/10-9-1943”. Nhưng lâu nay khi nói, khi dạy và học tập thơ NKTT,
hầu hết các trường hợp đều đề cập đến bài: “Tân xuất ngục học đăng sơn” (Mới ra tù tập leo núi). Bài thơ này
tuy về mặt phạm vi thời điểm, không gian, không ở trong NKTT, nhưng cảm xúc và
bút pháp vẫn là tiếp nối dòng thơ “Nhật ký”. Đặc biệt hơn, ở hoàn cảnh ra đời,
người đọc có thể tìm được những chỉ dẫn hết sức chi tiết, cụ thể. Đó là hai
cuốn sách: “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch” của Trần Dân Tiên (NMC...)và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” của T. Lan (V.Đ.Đ...). Các chi tiết
được thuật như sau: “Cụ Hồ ra sức tập leo núi, tập nhìn vào bóng tối
v.v...quyết tâm chưa cho khỏi bệnh ở chân và bệnh ở mắt” (N.M.C..., Nxb sự
thật, 1975,tr 99); “Khi được thả ra, mắt bác nhìn kém, chân bước không được,
bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bước ,
dù đau mà phải bò, phải lết, cũng phải được 10 bước mới thôi. Cuối cùng Bác
chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đến đỉnh núi, Bác
cao hứng làm một bài thơ chữ hán như sau:
“Vân
ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang
tâm như cánh tĩnh vô trần.
Bồi
hồi độc bộ Tây - Phong - Lĩnh,
Nam
vọng trùng dương ức cố nhân”
Bác chỉ nhớ bài thơ đó... (Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb sự
thật, 1976,Tr84)
Ở
đây, ngoại trừ chỉ dẫn hoàn cảnh xuất xứ bài thơ, còn có sự khác biệt về mặt
văn bản. Bài thơ “Mới ta tù, tập leo núi”, văn
bản mà các sách thường chọn in có nguyên văn như sau:
Vân
ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang
tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi
hồi độc bộ tây phong lĩnh,
Dao
vọng Nam thiên ức cố nhân.
(Hồ
Chí Minh toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia 1995, tr439)
Như
vậy, nhìn từ góc độ văn bản đã có sự biến động, có dị bản; mặc dầu không tạo sự
khác biệt lớn về nghĩa.
Ở
câu thơ thứ hai: “Kính tịnh” và “cánh tĩnh” không khác nghĩa nhau. Nhưng
câu thứ tư, giữa “Dao vọng Nam thiên”
và “Nam vọng trùng dương” có cấu trúc
ngữ nghĩa biến đổi. “Dao vọng Nam thiên” là “Trông về phía trời Nam xa xăm”;
“Nam vọng trùng dương” là “Nhìn phía Nam nơi biển xa muôn nghìn lớp sóng”. Sắc
thái ý nghĩa ở câu thơ được biểu hiện qua hình tượng, càng nổi rõ tâm trạng
hơn. Xét về thời gian xuất hiện thì bài thơ trong cuốn “V Đ ĐV K C” in năm 1963.
Còn bài thơ “Mới ra tù, tập leo núi” lâu nay sách vẫn in là xuất hiện năm 1960. Sách “Hồ Chí Minh toàn
tập” có chú thích: “Bài thơ này nguyên không có đầu đề, cũng không có trong tập
Ngục trung nhật ký, vì được sáng tác sau khi tác giả ra tù.Trong hồ sơ,
còn lưu giữ ở Viện Văn học có bút tích
của chính tác giả viết đầu đề này và gửi cho Tiểu ban biên tập vào đầu năm
1960”. (tr439, Sđd).
Chúng
tôi thiết nghĩ, công việc biên tập in ấn sau này về cuốn Nhật ký trong tù khi
đưa bài thơ còn có khảo dị. Nhân đây cũng nói thêm, bản dịch thơ “Mới ra tù,
tập leo núi” có hai bản dịch thơ. Một bản dịch của Nam Trân (Cuốn “Nhật ký
trong tù”của nhà xuất bản Văn hoá - thông tin, in năm 1995, chú thích bản dịch
của T.Lan là sai) ((!), trang 243); Một bản dịch của T.Lan là thơ lục bát.
Trong sách Hồ Chí Minh toàn tập , tập 3 (sđd) có in cả bản dịch này nhưng không
đúng các dấu chữ, dấu câu, chúng tôi xin phép chép lại như sau:
“Mây
ôm núi, núi ôm mây,
Lòng
sông sạch chẳng mảy may bụi hồng.
Bùi
ngùi dạo đỉnh Tây - Phong,
Trông
về cố quốc, chạnh lòng nhớ ai!”
(Trong
bản in ở Hồ Chí Minh toàn tập: Không có hai dấu (,) ở giữa câu 1 và 4; Không có dấu gạch giữa hai
chữ Tây - Phong; đánh dấu chấm phảy (;) cuối câu hai và dâu chấm (.) cuối câu
4).
Một số lỗi dẫu nhỏ, nhưng thái độ
cẩn trọng trong khoa học không cho phép tuỳ tiện; đánh dấu đã là một kiểu giải
mã thơ văn rồi đấy! điều này chúng ta lại tìm thấy bài học ở cách viết của Hồ
Chủ Tịch. Và phải chăng, điều nói trên đã không còn nhỏ nữa!