Lý Bạch tiễn đưa những ai, về đâu?
(Bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiến tế lưu
Ngô Tất Tố dịch:
Bạn từ lầu hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Về bài thơ tứ tuyệt “Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” (Tại Hoàng Hạc Lâu tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) của Lý Bạch, Sách giáo viên văn 10 (Nxb GD - 1991) cho rằng: “bài thơ chủ yếu nói lên tình bạn đằm thắm của Lý Bạch” (tr.40). “Có thể nói Lí Bạch là nhà thơ của tình bằng hữu”( Ngữ văn 10, Sách giáo viên, Nxb GD, 2006, tr 163). Nhưng liệu cảm hứng này có phải là cảm hứng chủ yếu, duy nhất của tác phẩm ?
Đề tài “tiễn bạn” rất phổ biến trong thơ Đường nói riêng, thơ ca nói chung - Lý Bạch có hàng chục bài đề tài này: Tống khách quy Ngô; Tống Dương Sơn nhân Quy Tung Sơn; Tống Trương xá nhân chi Giang Đông; Tống hữu nhân..Mỗi bài đều có ý tứ riêng, sự tình cụ thể, và có chung cảm hứng đưa tiễn. Cắt nghĩa, kết nối các ý theo cả trục ngang, trục dọc, ta sẽ có được diện mạo đặc thù và phổ cập của tác phẩm.
Bài thơ “Hoàng Hạc Lâu Tống Mạnh Hạo Nhiên Chi Quảng Lăng” có hai phần hô - ứng. Yếu tố tự sự nổi bật ở hai câu đầu:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
(Từ phía tây bạn cũ rời khỏi lầu Hoàng Hạc Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba mùa hoa khói).
Chữ “cố nhân” chỉ Mạnh Hạo Nhiên mà cũng gợi thêm về người bạn xa ẩn dật. Người bạn cũ ẩn dật nơi xa ra đi từ lầu Hoàng Hạc - cái không gian “Hoàng Hạc Lâu” vừa là cảnh thực, vừa là dấu vết Người tiên xưa, một lưu tích của người - không - thấy. Con người của quá khứ. Mà lại xuất hành từ phía tây - nó đâu chỉ cái phương hướng địa lý (mà nếu có thì cũng đầy ý nghĩa: Tây - hành kim, biến hoá vô cùng) . Cả câu thơ mô tả Mạnh Hạo Nhiên từ nơi cụ thể đi theo một hướng đã xác định. Nhưng thực sự thì Mạnh Hạo Nhiên đi về đâu ? Câu thơ thứ hai ghi địa danh rõ ràng: Dương Châu, và thời gian cũng rất cụ thể: tháng ba đầy sắc “yên hoa”. Như vậy, Mạnh Hạo Nhiên, và cả Lý Bạch nữa đều đã hướng về cuộc đời thế tục: hơn nữa, hướng về cảnh phồn hoa đô hội (yên hoa). Thế là họ lánh đời mà vẫn quyến luyến cái đẹp phồn thực của đời thường . Chúng ta cần lưu ý rằng: Mạnh Hạo Nhiên trước 40 tuổi ở ẩn, đọc sách, làm thơ; sau muốn ra làm quan, đến kinh đô Trường An mưu cầu công danh nhưng không toại nguyện, lại lui về tìm lạc thú chốn nước non - “yên hoa tam nguyệt”, tháng ba phồn hoa, tháng của Tiết Thanh Minh, của hội đạp thanh “gần xa nô nức yến anh”! Cả hai câu thơ vừa tả vừa gợi nhằm biểu hiện một Mạnh Hạo Nhiên (người đồng cảm, đồng khí với Lý Bạch) từ ẩn sĩ rời vào thế tục, con người cũ và con người hiện tại. Con người được đặt trong tình thế lưỡng cực, để có sự giằng xé day rứt: thoát tục hay nhập thế ?...Mạnh cũng như Lý đầy chất đời nhân sinh mà có được nỗi khổ nhân tâm, một tâm não bi kịch (họ không thoát thế như Đào Tiềm, cứng rắn kiểu Tô Đông Pha), nên người ta cảm thích gần gũi hơn với thơ của hai vị. Cái giằng xé sinh phản lực đã tạo khí chất đầy hồn thơ của họ bay cao...
Đến hai câu cuối là:
Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu (Bóng cánh buồm lẻ loi xa xa mất hút vào khoảng không xanh biếc, chỉ thấy sông Trường Giang chảy ở lưng trời)
Thì sự sống với màu xanh vô tận đã bao trùm các cá thể, và hai cá thể cũng như hoà tan trong “bích không tận” cùng “Trường Giang thiên tế lưu”...Không gian thơ Đường là không gian vũ trụ: trời nước với màu xanh vô tận. Con người cứ làm cuộc viễn du như thế đến vô cùng. Ở đây Lý Bạch nhấn lại hình ảnh “cô phàm”, “biển êm”… trong thơ Mạnh Hạo Nhiên: “Cô phàm thiên tế khán”( Cánh buồm đơn độc nhìn lên trời), “Bình hải tịch man man”( Biển êm đêm dằng dặc) - bài “Tảo hàn hữu hoài”, Sáng lạnh nhớ bạn ).Như vậy, bài thơ nói về người, mà cũng biểu thị mình. Tiễn đưa bạn về một địa chỉ xác định, mà mặc nhiên cũng tiễn biệt chính tâm hồn mình “từ cội nguồn vào thế tục”. (Theo tôi, cái “tiếng sóng ở trong lòng”người đi tiễn bạn trong bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm cũng là biểu hiện mặc nhiên của sự đưa tiễn chính mình - tiễn biệt “cái tôi lúc trước” sang cái “tôi lúc này”...). Đồng cảm mới tri âm .
Tóm lại, Lý Bạch giữa tháng ba tràn đầy sinh lực đất trời (yên hoa tam nguyệt), từ lầu Hoàng Hạc còn ghi nhận lưu tích tu tiên xưa mà tiễn Mạnh Hạo Nhiên về đất Quảng Lăng trong thành Dương Châu (thuộc tỉnh Giang Tô), là chốn phồn hoa đô hội lừng danh; thì cũng có nghĩa từ mảnh đất xuất thế mà tiễn bạn và cả chính mình về chốn đời thường tục luỵ, nhưng cũng không hiếm niềm vui trần thế . Nếu lưu tâm thêm cái tựa đề đặc biệt dài dòng chi tiết của bài thơ tứ tuyệt ngắn gọn này, chúng ta sẽ có cảm giác Lý Bạch dường như muốn “mã hoá” cội nguồn bằng hình ảnh Hoàng Hạc Lâu, và trần thế bằng miền đất Quảng Lăng. Cũng cần biết thêm là, Mạnh Hạo Nhiên cũng có bài “Ngủ ở Đồng Lư nhớ bạn cũ ở Quảng Lăng” (Túc Đông Lư giang ký Quảng Lăng cựu du) với những câu thơ “Thương giang cấp hạ lưu”( sống lạnh chảy gấp về xuôi), “Nguyệt chiếu nhất cô chu”(Chiếc thuyền lẻ loi, trăng soi dãi dầu). Thi nhân giao đãi bằng láy lại câu chữ, hình ảnh thơ của nhau, tăng phần tri âm tri kỷ.
Trước các thi tứ ẩn hiện đa dạng của bài Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, cần quan tâm đến nhiều bình diện mới mong cảm nhận được nhiều ý tứ sâu xa .
(Bài đã in báo Văn nghệ , có chỉnh sửa, bổ sung).