Trong giao lưu xướng họa thơ ca của Tản Đà, có một trường hợp đầy chất “văn hóa diễm tình”. Đó là “sự kiện” quanh bài thơ Rau sắng chùa Hương. Để hiểu hoàn cảnh ra đời bài thơ và bài họa thơ, xin chép lại các văn bản thơ.
RAU SẮNG CHÙA HƯƠNG
Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa.
Mình đi, ta ở lại nhà
Cái dưa thời khú cái cà thời thâm.
(Truyện Thế gian 1- 1923)
NGUYỄN TIÊN SINH NHÃ GIÁM
Kính dâng rau sắng chùa Hương
Đỡ ai tiền tốn con đường đỡ xa.
Không đi thì gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.
(Đỗ Tang Nữ bái tặng)
Mấy lời cảm tạ tri âm
Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình
Đường xa rau vẫn còn xanh
Tấm lòng thơm thảo bát canh ngọt ngào
Yêu nhau xa cách càng yêu
Dẫu rằng suông nhạt càng nhiều chứa chan.
Nước non khuất nẻo ngư nhàn
Tạ lòng xin mượn Thế gian đưa tình.
Nguyễn Khắc Hiếu bái phục
Truyện Thế gian (11 - 1923)
Trong “Tuyển tập Tản Đà” (Nguyễn Khắc Xương tuyển chọn, Nxb Văn học, 1986) có chú dưới bài thơ “Nguyễn tiên sinh nhã giám” – bài thơ “cảm tạ” và “đưa tình” người gửi rau sắng và bài thơ “bái tặng” – như sau: “Tản Đà trước hội Chùa Hương 1923 có bài thơ Rau sắng chùa Hương in trên Truyện Thế gian 1, sau hội chùa Hương năm đó nhận được một bưu kiện gửi từ Phủ Lý có một bó rau sắng và một bài thơ của Đỗ Tang Nữ, không địa chỉ. Đỗ Tang Nữ sau này được biết là Đỗ Thị Song Khê, em nữ sĩ Tương Phố” (trang 173). Vậy theo chú thích này, có phải tên thật của của tác giả bài thơ “bái tặng” là Đỗ Thị Song Khê? Đỗ Tang Nữ là tên hiệu hay bút danh?
Tìm ở các cuốn Từ điển văn học Việt Nam chưa thấy mục từ tác giả Song Khê. Chỉ có người chị của bà là Tương Phố, được ghi: “Tương Phố (1896 – 1973) nhà thơ nữ Việt Nam, tên thật là Đỗ Thị Đàm, sinh tại Đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang” (Từ điển văn học, bộ mới, nxb Thế giới, 2004, tr 1907). Trong cuốn Tuyển các nhà thơ nữ Việt Nam (nxb Phụ nữ, 2000), giới thiệu về Tương Phố có khác : “Họ tên thật Đỗ Thị Đàm, sinh 19.07.1900, tại Cao Phong, Thất Khê, Lạng Sơn; quê cha xã Bối Khê, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Từ nhỏ Tương Phố cùng người em sinh đôi (là Đỗ Thị Thoại, tự Song Khê, hiệu Tang Bồng nữ sĩ ) được cha là Đỗ Duy Phiên dạy chữ Hán, chữ Nôm…” (tr 130)
Trong bài “Một đính chính cần thiết về Tương Phố”, thuật lại cuộc “tọa đàm khoa học nhân tròn 100 năm sinh của nữ sĩ Tương Phố, vào ngày 25.11.2000, tại thành phố Đà lạt, in trên tờ Văn nghệ (số 51, ngày 16.12.2000) Tiến sĩ Phạm Quang Trung cho rằng: Từ điển văn học, tập 2 ( nxb KHXH, 1984) và cuốn Nữ sĩ Việt Nam đầu thế kỷ XX (nxb Phụ nữ, 1997) đều ghi Tương Phố sinh 1896 tại Đồn Đầm tỉnh Bắc Giang là “chưa chính xác”. Theo tác giả bài viết: “Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm, sinh 14.7.1900 tại Thất Khê, tỉnh Lạng Sơn”, “em gái của bà là Đỗ Trang Nữ, bút hiệu Long Khê, chính là người viết bài thơ Rau sắng chùa Hương gửi Tản Đà”.
Đến ngày 17.2.2001, cũng ở báo Văn nghệ, ông Nguyễn Công Minh “với tư cách là con nữ sĩ Song Khê và cháu nữ sĩ Tương Phố” đã phê bài “đính chính” của Tiến sĩ Phạm Quang Trung có điểm chưa đúng và đính chính lại như sau: “Nữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh năm 1986 tại Đồn Đầm, tỉnh Bắc Giang. Cụ thân sinh ra nữ sĩ là Đỗ Duy Phiên một nhà nho lận đận trường ốc và là con một Đề đốc của nghĩa quân Tán Thuật. Vì Tương Phố sinh tại Đầm nên có tên Đàm (tiếng Hán: Đàm là cái đầm nước sâu). Bà mất ngày 8.11.1973 tại Đà lạt, “Em gái nữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Khê, lấy bút danh Song Khê. Sở dĩ có bút danh này, vì bà sinh ngày 14.7.1900 tại Thất Khê tỉnh Lạng Sơn và nguyên quán xã Bối Khê, tỉnh Hưng Yên. Bà Song Khê mất ngày 26.3.1993”( bài Đính chính lại về Tương Phố )
Từ những thông tin tư liệu trên, tạm thời có thể biết được tên chính, tự, hiệu, bút danh của Bà. Người làm bài thơ “họa” bài thơ Rau sắng chùa Hương của Tản Đà, tên thật là Đỗ Thị Khê – không phải Đỗ Thị Thoại, cũng như không là Đỗ Thị Song Khê; có tự là Song Khê, hiệu là Tang Bồng nữ sĩ, dùng bút danh Đỗ Tang Nữ (Tang chứ không phải Trang như Phạm Quang Trung viết). Bút danh này là ghép họ và hiệu của Bà. Đỗ Thị Khê sinh 14 (hoặc 19) tháng 7. 1900, mất 28.3.1993. Bà kém người chị là Tương Phố 4 tuổi, không phải là chị em song sinh.
Theo tác giả Hạ Đình Nguyên: “Thời điểm xảy ra câu chuyện trên, Song Khê đang là nữ hộ sinh cao cấp (tương đương bác sĩ), làm việc tại Phủ Lý (Hà Nam). Đến năm 1927 thì Song Khê chuyển công tác về Móng Cái (Quảng Ninh), theo dõi An Nam tạp chí biết cuộc sống của Tản Đà lâm vào cảnh túng thiếu, Song Khê đã gởi tặng tác giả Thề Non Nước trọn một tháng lương kèm theo những lời động viên, khích lệ. Một năm sau, Song Khê chuyển về Kiến An (Hải Phòng). Tản Đà cũng có một người bạn thơ đang sống ở đây. Nhân một buổi về Hải Phòng thăm bạn, Tản Đà được người bạn này dẫn đến thăm Song Khê. Rồi... theo tác giả Trần Kiêm Đạt trên Kiến thức Văn hóa thì trong bức thư đề ngày 23.3.1968 gửãi cho ông Hồ Đình Chữ (Huế), bà Song Khê có viết: “Tuy sinh cùng nước, cùng thời, với lòng cảm phục văn tài vô hạn nhưng tôi cũng chưa được hân hạnh quen biết và tìm gặp tiên sinh bao giờ. Mãi đến năm 1928, khi tôi ở Kiến An, có một bữa (21 tháng 3), một văn hữu ở Hải Phòng đưa thi sĩ Tản Đà đến thăm tôi mà không hề giới thiệu. Tiếp chuyện độ nửa giờ, người bạn tôi cùng ông khách ra về, sau này tôi mới biết vị khách đó là thi sĩ Tản Đà... Câu chuyện văn chương tưởng như mới ngày nào, nửa thế kỷ thấm thoát đã trôi qua, đến nay chỉ là giấc mộng. Tuổi vô dụng giục người tóc bạc. Trận phong sương đồn rã cuộc trăm năm. Ngót ba mươi năm nay, Tản Đà tiên sinh đã gánh văn lên bán Chợ Trời, chẳng còn mấy nữa người rau sắng cũng sắp về Hương quy Phật, âu cũng là Vèo trông lá rụng đầy sân/Công danh phù thế có ngần ấy thôi !” - Kính bút: Song Khê - Người Rau Sắng”!
Sau này, bà Song Khê sống ở Sài Gòn, rồi định cư ở Virginia (Mỹ) và mất năm 1993, hưởng thọ 93 tuổi (Thanh niên oline, 5/5/2010). Thông tin về năm sinh (1901) và nơi mất (ở Mỹ) không khớp với tư liệu gia đình cung cấp.
Về sáng tác, hiện chưa có sưu tầm tập hợp các sáng tác đã in trên báo chí của Bà. Ngoài bài “họa” Rau sắng chùa Hương “bái tặng” Tản Đà. Nữ sĩ Song Khê có hai câu thơ thất ngôn đề sau bức ảnh chụp hai chị em (Tương Phố - Song Khê) năm 1920 : “Ngoảnh lại bụi hồng toàn mộng ảo/ Trần ai tri kỷ chị em ta”. Và bài thơ thất ngôn lục bát, chưa đăng, sáng tác 1943:
HAI BÀ TRƯNG
Non sông cũ mây mù khói tỏa
Nước Tây Hồ tăm cá bóng chim
Anh linh nay biết đâu tìm
Khói hương để mãi đàn em sau này
Năm năm, hội đền ghi ghi nhớ
Sử xanh còn muôn thuở ghi công
Yếm khăn đổi lấy tang bồng
Hai Bà Trưng để má hồng nghìn thu.
(Theo tư liệu của Nguyễn Công Minh, bài đã dẫn)